ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ THEO CÔNG ƯỚC VIENNA 1980

  • Tháng Tám 19, 2021
  • Đăng bởi admin
  • 0 bình luận

          Để tiến tới để ký kết một hợp đồng chính thức, cần mất rất nhiều thời gian để đàm phán và thương lượng rất dài để đạt được sự đồng thuận và lợi ích cân bằng giữa các bên. Quá trình này trải qua nhiều giai đoạn và trước hết, đề nghị giao kết hợp đồng là vấn đề đầu tiên cần được xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng nhằm tạo nên tiền đề cho quá trình đàm phán hợp đồng sau này. Đối với Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, việc thận trọng trong vấn đề này lại càng quan trọng hơn vì hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận biết và hiểu rõ về đề nghị giao kết Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Bài viết sau đây đưa ra một góc nhìn tổng quan nhất về vấn đề này dựa trên cơ sở Công ước Vienna 1980 của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.

Khi nhắc đến đề nghị giao kết hợp đồng, cần phải xem xét những khía cạnh pháp lý sau: thế nào là đề nghị giao kết hợp đồng, giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng, thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực.

1. Đề nghị giao kết hợp đồng

Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị). Từ đó có thể thấy được ba đặc điểm cơ bản của một đề nghị giao kết hợp đồng như sau:

Đầu tiên là lời đề nghị phải được gửi cho bên đã xác định. Bên xác định có thể là một người hay một số người xác định và giống với quy định của pháp luật nhiều nước.

Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện ý định giao kết của bên đề nghị. Điều 14 Công ước Vienna 1980 quy định rằng đề nghị giao kết hợp đồng được coi là xác định nếu trong đó có mô tả hàng hoá, quy định trực tiếp hay gián tiếp số lượng, giá cả, cách thức xác định chúng. Pháp luật của nhiều nước cũng có quy định trong đề nghị giao kết hợp đồng phải có nội dung chủ yếu của hợp đồng. Ví dụ pháp luật nước Anh có quy định một đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện được ý chí mong muốn giao kết hợp đồng và phải có các điều kiện cụ thể về điều khoản của hợp đồng, đồng thời ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên nếu đề nghị giao kết được chấp nhận bởi bên đã được xác định.

Thứ ba, lời đề nghị giao kết phải thể hiện được sự ràng buộc của bên đề nghị trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng được chấp nhận. Một đề nghị được coi là đề nghị giao kết hợp đồng thông qua nội dung của nó, bên được đề nghị hay bất kỳ người có đủ năng lực hành vi dân sự nào khác khi đọc nó hiểu rằng, nếu bên được đề nghị chấp nhận thì hợp đồng được ký kết.

2. Thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng

Đề nghị giao kết hợp đồng có thể quy định thời hạn trả lời (cố định) và không quy định thời hạn trả lời (không cố định). 

Căn cứ Điều 20 Công ước Vienna 1980, thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hàng quy định trong điện tín hay thư bắt đầu tính từ lúc bức điện được giao để gửi đi hoặc vào ngày ghi trên thư hoặc nếu ngày đó không có thì tính từ ngày bưu điện đóng dấu trên bì thư. Thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hàng quy định bằng điện thoại, bằng telex hoặc bằng phương tiện thông tin liên lạc khác, bắt đầu tính từ thời điểm người được chào hàng nhận được chào hàng

Chấp nhận chào hàng chỉ có giá trị nếu nó được gửi đến cho người chào hàng trong thời hạn do người chào hàng quy định. Có thể bằng bất cứ phương tịên thông tin liên lạc nào và được tính từ lúc bức điện được giao để gửi đi hoặc vào ngày ghi trên bì thư (nếu ngày đó không có thì tính từ ngày bưu điện đóng dấu trên bì thư).

Thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hàng quy định, bắt đầu tính từ thời điểm người được chào hàng nhận được chào hàng (Các ngày lễ hoặc ngày nghỉ việc rơi vào khoảng thời gian được quy định không được tính cộng thêm vào thời hạn đó). Nếu ngày cuối của thời hạn chấp nhận chào hàng rơi vào ngày nghỉ lễ hay ngày nghỉ thì thời hạn chập nhận chào hàng có thể sẽ được kéo dài tới ngày làm việc đầu tiên kế tiếp các ngày nghỉ đó.

Đối với đề nghị giao kết không quy định thời hạn trả lời, theo nguyên tắc có thể bị thay đổi, thu hồi trong mọi thời điểm nếu chưa được bên đề nghị chấp nhận. Chấp nhận giao kết hợp đồng sẽ không được coi là phát sinh hiệu lực nếu không được gửi tới người đề nghị theo thời hạn quy định tại Điều 18 khoản 2 Công ước Vienna 1980.

Theo nguyên tắc chung, đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau:

      – Bên được đề nghị từ chối chấp nhận bằng một thông báo.

      – Sự trả lời của người được đề nghị trở thành đề nghị giao kết hợp đồng mới.

      – Hết thời hạn hiệu lực được bên đề nghị hoặc pháp luật quy định trong đề nghị giao kết hợp đồng.

Tuy nhiên, trong trường hợp bị thu hồi, người đề nghị giao kết hợp đồng chết hay xảy ra những tình huống làm cho hợp đồng không thể thực hiện được thì đề nghị giao kết hợp đồng cũng chấm dứt hiệu lực nếu việc thực hiện hợp đồng liên quan chặt chẽ đến những phẩm chất nhất định của người đề nghị giao kết hợp đồng hoặc nếu điều này xuất phát từ nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng hay mục đích của hợp đồng sau này.

Lưu ý rằng căn cứ Điều 23 Công ước Vienna 1980, Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm chấp nhận giao kết hợp đồng có hiệu lực. Bắt đầu từ thời điểm này các bên phát sinh những quyền và nghĩa vụ được ghi trong trong hợp đồng. Do đó, đề nghị giao kết hợp đồng cần được cân nhắc kỹ lưỡng trước khi chủ thể quyết định chấp nhận giao kết vì sau đó, quan hệ hợp đồng sẽ được thiết lập và ràng buộc các bên.

3. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Như đã đề cập ở trên, Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm chấp nhận chào hàng có hiệu lực. Bắt đầu từ thời điểm này các bên phát sinh những quyền và nghĩa vụ được ghi trong trong hợp đồng

Khi người nhận được chào hàng có một lời tuyên bố hay một hành vi khác cấu thành chấp nhận chào hàng thì mới được coi là đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Căn cứ Điều 18 khoản 1 Công ước Vienna 1980, nếu người nhận được chào hàng nhưng im lặng hoặc không hành động thì không được coi là chấp nhận chào hàng.

Người nhận được chào hàng sau khi đã chấp nhận cũng có thể suy xét lại và nếu thấy chào hàng không có lợi cho mình thì có thể huỷ chấp nhận mà mình đã gửi.

Tuy nhiên, căn cứ Điều 22 Công ước Vienna 1980 việc chấp nhận chào hàng chỉ có thể được chấp nhận nếu thông báo về việc huỷ chấp nhận chào hàng tới người chào hàng trước hoặc cùng thời điểm chấp nhận có hiệu lực. Thông báo này coi như là “tới nơi” khi thông báo này, hoặc bằng lời nói, hoặc được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho chính người đã chào tại trụ sở thương mại của họ, tại địa chỉ bưu chính hoặc nơi thường trú nếu không có địa chỉ bưu chính.

a. Dấu hiệu xác định một chào hàng được chấp nhận

Một lời tuyên bố hay một hành vi khác của người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng cấu thành chấp nhận chào hàng thì khi đó chấp nhận chào hàng phát sinh hiệu lực.

b. Chấp nhận chào hàng phát sinh hiệu lực

Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được sự chấp thuận của người được chào.

Chấp nhận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp thuận ấy không được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà người này đã quy định trong chào hàng. Hoặc trong thời hạn đó không được quy định như vậy, thì trong một thời hạn hợp lý, xét theo tình tiết của sự giao dịch, trong đó xét đến tốc độ của phương tiện liên lạc do người chào hàng sử dụng. Một chào hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các tình tiết bắt buộc ngược lại

Nếu do hiệu lực của chào hàng hoặc do thực tiễn đã có giữa hai bên trong mối quan hệ tương hỗ hoặc tập quán thì người được chào hàng chứng tỏ sự chấp thuận của mình bằng cách thực hiện một hành vi nào đó (Ví dụ: hành vi gửi hàng hay trả tiền dù họ không thông báo cho người chào hàng) mình muốn tiến tới ký kết hợp đồng thì chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi hành vi đó được thực hiện và trong thời hạn quy định

c. Chào ngược

Nếu bên được chào hàng có khuynh hướng chấp nhận nhưng trong thư trả lời có chứa những điểm bổ sung; bớt đi; thêm vào hay sửa đổi thì đó được coi là từ chối chào hàng và tạo thành một chào hàng mới gọi là chào hàng ngược.

Những điểm bổ sung, sửa đổi hay đề nghị đó nếu không làm biến đổi những điểm cơ bản trong nội dung của chào hàng thì được xem là chấp nhận chào hàng (Trừ trường hợp người có yêu cầu được sửa đổi gửi thông báo ngay lập tức thể hiện sự phản đối của mình tới người được chào hàng).

Trên đây là một số nội dung tổng quan về đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế dựa trên quy định của Công ước Vienna. Hy vọng người đọc có cái nhìn bao quát về vấn đề này.

Nguồn tham khảo:

  1. Đại học quốc gia TP. HCM, Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế, NXB. Đại học quốc gia TP.HCM.
  2. Đại học quốc gia TP.HCM, Trường Đại học Kinh tế – Luật, PGS.TS. Dương Anh Sơn, Luật hợp đồng thương mại quốc tế, NXB. Đại học quốc gia TP.HCM
  3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, NXB CAND, Hà Nội.
  4. PGS.TS Mai Hồng Quỳ- ThS. Trần Việt Dũng, Luật Thương Mại Quốc Tế, NXB Đại học quốc gia TP.HCM.
  5. PGS.TS Nguyễn Văn Luyện – TS Lê Thị Bích Thọ – TS Dương Anh Sơn, Hợp đồng thương mại quốc tế, NXB CAND.

TG. Nguyễn Thị Thanh Hiền – Ban Biên soạn TNJ

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *